Ba Lần Gả

Chương 68: Bàn đầu mối. tiếng lòng lộ ra




Đêm đó, phản ứng của mọi người khi về phủ rất khác nhau.

Đinh Thịnh giận dữ, hất bàn trong phủ. Đinh phu nhân và bọn hạ nhân câm như hến, không dám hỏi, không dám cất tiếng.

Vân Thanh Hiền trầm mặc ít nói, khiến Đinh Nghiên Hương lo lắng: “Có phải bố lại làm khó chàng không?” Vân Thanh Hiền lắc đầu, trấn an cô ta mấy câu để cô ta đi ngủ sớm.

Trong Vân phủ, Đinh Nghiên San lấy cớ ăn canh nấm tuyết bữa khuya để đứng ngoài nghe trộm, nhưng cũng không nghe được gì. Cô ta quyết định gõ cửa. Vân Thanh Hiền không ăn, hai chị em ngồi ăn với nhau. Đinh Nghiên San hỏi thăm chị gái, Đinh Nghiên Hương muốn nói lại thôi. Hình như chuyện liên quan đến Đinh Thịnh, nhưng cuối cùng Đinh Nghiên Hương không nói gì.

Tiền Giang Nghĩa về nhà thì cuống cuồng kiếm hai bình rượu mà uống. Anh ta hốt hoảng, không biết nên làm gì giờ. Kích động hỏng việc, hối hận thì đã muộn.

Nhã Lê Lệ quay về phòng, chơi cầm trước trăng, một đêm không ngủ.

Cư Mộc Nhi ngủ cũng không ngon. Nàng vùi đầu vào lòng Long Nhị, mơ mơ màng màng, ôm chặt cánh tay Long Nhị cả đêm không buông. Trời tờ mờ sáng nàng mới ngủ được.

Long Nhị rất lo lắng, sáng hôm sau vội vàng đến trấn bên cạnh để làm gậy cho Cư Mộc Nhi, đáng ra trưa phải đi xã giao thì về nhà ăn với nàng. Nhưng hắn không ngờ vừa về nhà lại thấy nàng đang chơi “người mù bắt cá” với nha hoàn và Bảo Nhi.

Cư Mộc Nhi mù, không cần buộc khăn cũng được, vì thế để làm nàng “người mù” luôn, Bảo Nhi và nha hoàn làm “cá”. Mọi người chạy vòng vòng xung quanh, không để Cư Mộc Nhi bắt được.

Bảo Nhi chơi rất thích thú, hò hét loạn xạ, vì thế Cư Mộc Nhi bắt con bé rất nhanh.

Lúc Long Nhị vào sân là Bảo Nhi vừa bị Cư Mộc Nhi chụp được. “Oa, là con cá to.” Nàng ôm Bảo Nhi, giả vờ kích động.

Bảo Nhi cười “khanh khách”, còn giãy giụa, thấy Long Nhị thì kêu: “Nhị bá phụ.” Long Nhị cười cười, chạy ra chỗ Bảo Nhi: “Ôi con cá to quá, nặng thế. Bảo nhà bếp: hấp!”

Bảo Nhi sợ hãi nhảy xuống đất. Nha hoàn cười ha ha, rất biết ý đưa Bảo Nhi đi, để vợ chồng Long Nhị lại với nhau.

“Tâm trạng tốt?” Long Nhị đưa Cư Mộc Nhi về phòng.

Cư Mộc Nhi lại giả làm vợ hiền, rót trà cho tướng công: “Có tướng công cái gì cũng tốt.”

“Còn nói ngọt lừa gia.”

“Ngọt à?” Cư Mộc Nhi bỗng nhiên chu mỏ, hôn chụt mấy cái liền lên môi Long Nhị.

Long Nhị ho khan vài tiếng. Khí thế đàn ông không thể tiếp nhận chiêu này, có động cũng phải là gia động trước. Bỏ qua cho nàng, bỏ qua cho nàng!

Long Nhị cố gắng tỏ ra bình tĩnh, quyết tâm không tiếp chiêu. Cư Mộc Nhi cười cười, không vội cũng không buồn, ngồi xuống cái ghế gần đó. Nàng lại cứ thản nhiên mặc kệ, Long Nhị lại mất hứng.

Gia không để ý đến nàng, nàng nên dụ dỗ quấn quýt gia đến tận khi gia để ý chứ. Sao lại thôi nhanh như vậy?

Long Nhị kéo Cư Mộc Nhi qua, đặt nàng lên đùi mình, cũng không ôm nàng, không nói gì, chỉ ho khan hai tiếng. Cư Mộc Nhi rất có ý thức tự giác, vòng tay qua cổ hắn, chủ động tiến đến hôn lên khóe môi hắn. Long Nhị không biết được là có phải nàng không nhìn thấy nên hôn lệch không, nhưng sự chủ động của nàng khiến hắn rất thỏa mãn, vì thế hắn “tử tế” hôn lại, để nàng có thể tiếp tục hôn thêm.

Hai người ngọt ngào một hồi, Cư Mộc Nhi đỏ mặt, tựa đầu vào cổ hắn.

Long Nhị dừng một chút, khàn khàn hỏi: “Nàng có đói không?”

Cư Mộc Nhi sững sờ, không hiểu ý câu này.

Long Nhị xoa xoa mặt nàng: “Đến giờ ăn trưa rồi.”

Vì thế? Cư Mộc Nhi suy nghĩ một chút, bừng tỉnh. Nàng đỏ mặt, ôm cổ Long Nhị, thì thầm đáp lời theo ý hắn: “Không đói.”

Long Nhị sung sướng, bế nàng vào phòng trong: “Vậy chúng ta ăn cơm muộn một chút.”

Màn buông, váy áo lả lơi. Dây dưa đưa đẩy, đỉnh cao tiêu hồn.

Tiểu Trúc định gọi thiếu gia và phu nhân dùng bữa, chuẩn bị gõ cửa thì nghe tiếng Cư Mộc Nhi ngâm nga, thế là cô đỏ bừng mặt, vội vã chạy đi, chỉ sợ bị Long Nhị nghe thấy rồi trách phạt.

Cuối cùng, bữa cơm này diễn ra rất muộn. Nha hoàn và tiểu phó ai cũng ngồi chờ, phòng bếp cũng không dám tắt lửa. Cư Mộc Nhi nghe nói lại thì xấu hổ đỏ cả mặt.

Long Nhị lại chẳng xấu hổ. Hắn cảm thấy thoải mái vô cùng. Cư Mộc Nhi không xoắn xuýt mãi về án oan kia khiến hắn rất yên tâm, ăn no rồi hắn đưa gậy cho Cư Mộc Nhi. Hắn đỡ tay dạy nàng cách dùng, cuối cùng chọc trán nàng, cảnh cáo: “Gậy này chỉ là phòng thân, phòng ngừa ngộ nhỡ, không phải để nàng làm nữ hiệp hành hiệp trượng nghĩa, hiểu chưa?”

“Hiểu rồi.” Cư Mộc Nhi gật đầu.

“Nếu gặp phải chuyện không ổn, hoặc cảm thấy nguy hiểm, nàng phải bỏ chạy, đừng có cho là mình đánh được, hiểu chưa?”

“Hiểu rồi.”

“Có gậy thì đi đâu cũng vẫn phải dẫn theo nha hoàn hộ vệ, không được đi một mình, hiểu chưa?”

“Hiểu rồi.”

Long Nhị xoa cằm. Nàng cứ ngoan như vậy? “Nàng hiểu cái gì?”

“Hiểu rằng tướng công rất tốt với ta.” Cư Mộc Nhi nhào ra ôm Long Nhị.

Long Nhị ho khẽ: “Gia phải ra ngoài.”

“Tướng công đi thong thả.” Ôm lấy không buông.

Long Nhị cười cười, vô cùng đắc ý, “Đừng làm gia bị muộn.” vô cùng nghiêm túc.

“Tướng công nhớ về sớm.”

Nghe vợ nịnh một chút thật thích thú. Long Nhị dương dương đắc ý rời nhà.

Đến tối, hắn về phủ, hỏi nha hoàn xem phu nhân làm gì, nha hoàn nói phu nhân cứ chơi cầm và sờ cây gậy mới mãi. Điều này càng khiến Long Nhị vui hơn.

Long Nhị cứ vui vẻ như thế, vì vậy khi Cư Mộc Nhi bảo muốn gặp Nhã Lê Lệ, hắn không do dự mà đồng ý.

Còn hơn hai ngày nữa là cầm sử của Tây Mẫn quốc phải rời Tiêu quốc. Đây là buổi tối đầu tiên trong hai ngày cuối cùng của họ.

Nhã Lê Lệ rất kinh ngạc khi thấy vợ chồng Long Nhị đến nhưng vẫn khách sáo mời hai người vào. Cư Mộc Nhi nói rằng khó quên được cảnh lúc đấu cầm, vì thế mạo muội đến trò chuyện về cầm, sợ không còn cơ hội khác nữa.

Nhã Lê Lệ nghe xong cũng nói mấy lời khách sáo.

Mọi người ngồi xuống, uống chén trà. Cư Mộc Nhi nói: “Lúc đầu, Nhã Lê Lệ đại nhân chơi cầm khiến ta mở mang không ít, hôm nay ta đến để đáp lễ đại nhân.”

Nhã Lê Lệ đồng ý, cho người mang một cây cầm lên.

Cư Mộc Nhi gật đầu cám ơn, vung tay lướt trên cầm, tiếng cầm như tiếng nước chảy.

Long Nhị vẫn nghe chẳng hiểu gì, nhưng đây là tiếng cầm của Mộc Nhi nhà hắn, vì thế hắn cũng nể tình nghĩ rằng tiếng cầm này rất êm tai. Tiếng đàn êm tai, còn dáng người thì xinh đẹp. Nàng vốn là người nho nhã, lúc chơi cầm còn có phong thái của tiên nhân, duyên dáng mà rực rỡ.

Long Nhị không hề cảm thấy ông trời bất công. Dù sao Mộc nhi nhà hắn càng nhìn càng thuận mắt, ai cũng không khiến hắn thích được như nàng.

Cư Mộc Nhi tập trung chơi cầm, không chú ý đến Long Nhị. Long Nhị bớt thời gian nhìn Nhã Lê Lệ, chỉ thấy bà từ thản nhiên dần sang kinh ngạc. Nghe một hồi lại ngồi thẳng lưng, nhìn Cư Mộc Nhi không chớp mắt.

Cư Mộc Nhi chơi rất dài, chơi được hơn nửa khúc thì Nhã Lê Lệ chợt trào nước mắt. Chơi đến cùng, gương mặt Nhã Lê Lệ nhòa nước mắt, khóc không thành tiếng.

Xong, lại bắt đầu điên điên rồi.

Long Nhị cảm thấy không thoải mái. Một người đàn ông không thích cầm nghiêm túc ngồi với hai người phụ nữ mê cầm điên rồ, hắn cảm thấy không chịu nổi.

Cư Mộc Nhi chơi xong, nghe tiếng Nhã Lê Lệ nức nở, lại hiểu suy nghĩ của Long Nhị, nàng nói: “Nếu tướng công không thoải mái, chi bằng ra vườn uống chút rượu, ta và Nhã Lê Lệ đại nhân trò chuyện một chút.”

Long Nhị nhíu mày, thấy không vui. Nhưng Nhã Lê Lệ nghe vậy thì sai người mang rượu và thức ăn lên cho Long Nhị gia. Long Nhị nghĩ nghĩ, cuối cùng cũng ra ngoài.

Trong gian nhà chỉ còn Nhã Lê Lệ và Cư Mộc Nhi.

Hai người không nói gì.

Cuối cùng Cư Mộc Nhi lên tiếng hỏi: “Nhã Lê Lệ đại nhân thấy từ khúc thế nào?”

“Khúc chiết xúc động, ẩn giấu nhiều tâm tư.”

Cư Mộc Nhi gật đầu: “Quả thực là thế. Đây là từ khúc lúc lâm chung của vị đại sư trong cầm giới chúng ta, cực kỳ huyền diệu.”

Nhã Lê Lệ hỏi: “Vì sao phu nhân lại chơi cho ta nghe?”

“Bà không muốn nghe sao?”

“Muốn. Ta luôn một lòng tâm niệm, chỉ mong được nghe từ khúc này lúc còn sống. Giờ đây trời đất cách biệt, người mất mà không được thấy, trong lòng đau đớn khôn nguôi. Chẳng biết di ngôn ở nơi nào, vì thế mới chạy tới đây.”

Cư Mộc Nhi gật đầu: “Vậy coi như chuyến đi này của đại nhân không tệ.”

“Nhưng vì sao phu nhân biết?” Nhã Lê Lệ vẫn hơi cảnh giác.

“Trên du thuyền, đại nhân gảy từ khúc tình cảm xúc động, ta nghe được tình ý ấy, không hề giả tạo. Nhưng Tiền tiên sinh bước ra nói, đại nhân lại không tỏ thái độ, ta đoán rằng chắc chắn đại nhân có chuẩn bị trước khi đến đây.”

Nhã Lê Lệ hít sâu một hơi, kêu lên, không che giấu được sự đau thương: “Ta vẫn tin chắc rằng ông ấy chết oan. Ông ấy đã nói sẽ về cưới ta, tại sao có thể giết người chỉ vì một cuốn cầm phổ. Tính tình ông ấy cổ quái, tùy hứng bá đạo, nhưng ông ấy sẽ không làm chuyện như vậy chỉ vì một cuốn cầm phổ. Có từ khúc hay nào mà ông ấy chưa từng thấy? Hơn nữa, Sử đại nhân là bạn tốt của ông ấy, ông ấy có nhắc đến vài lần với ta rằng bọn họ thảo luận chuyện chơi cầm với nhau, có chung chí hướng. Sao ông ấy có thể ra tay ác độc như vậy với bạn bè của mình?”

Cư Mộc Nhi lẳng lặng lắng nghe.

Nhã Lê Lệ lại nói: “Trước đây, khi nghe ông ấy bị bắt, xử tử, ta đã bị ốm. Ông ấy chết rồi, ta chẳng còn gì chờ mong nữa, chỉ muốn được đi cùng ông ấy. Không ngờ ông trời lại không bắt ta đi. Bệnh của ta dần khỏi sau nhiều năm. Ta đã mất phương hướng rất lâu, sau đó bỗng một ngày, ta nhận ra rằng ông trời không lấy mạng ta là vì muốn ta còn sống, rửa sạch nỗi oan cho tiên sinh. Thế là ta bắt đầu đi dò hỏi khắp nơi, hao tốn tâm tư, tìm cớ đến Tiêu quốc để tìm đầu mối. Thế nhưng ta chẳng tìm được cái gì có ích. Ta nghe nói trước khi chết, Sư tiên sinh có chơi cầm, ta nghĩ với tính tình của ông ấy thì sắp bị chém sao còn cam tâm chơi cầm cho người khác? Vì thế, chắc chắn trong từ khúc ấy có ẩn ý, tiếc là không ai biết.”

“Hôm ấy, đại nhân trổ tài chơi cầm cũng nhắc đến tiên sinh. Đại nhân muốn thử cầm sư ở đấy?”

“Không sai. Thế nhưng hôm đó không ai phản ứng.” Nhã Lê Lệ nhíu mày, “Không ngờ người ở Tiêu quốc đều khó lường như thế. Tiền Giang Nghĩa kia nghe ta kể chuyện xong cũng không để lộ gì, nhưng trong buổi đấu cầm lại lên tiếng. Ban đầu nghe anh ta nói, ta còn tưởng anh ta có mưu kế gì, hóa ra lại chỉ là một kẻ lỗ mãng, không có bằng chứng nào đã dám đụng vào Hoàng thượng. Ngươi nói đúng, ta không tỏ thái độ gì là vì đã có chuẩn bị. Thời gian còn nhiều, không sợ không tìm được. Một năm ta không tìm được, vậy thì hai năm, hai năm không được thì ba năm, nói chung ta quyết không để người ta yêu mang tiếng ác mà chết không nhắm mắt.”

Nói đến đây, Nhã Lê Lệ nhìn Cư Mộc Nhi chăm chú: “Cô cũng là một người khó đoán. Nếu cô chơi cầm, ta nghe không hiểu, vậy cô cũng không nói gì với ta nữa đúng không?”

“Đúng,” Cư Mộc Nhi thẳng thắn thừa nhận, “Trong buổi đấu cầm, Tiền tiên sinh cũng nói Sư tiên sinh dùng năm từ khúc khác nhau để phối hợp kêu oan, ta chơi mà bà nghe không hiểu thì ta nhiều lời vô ích. Mặt khác, nếu bà chất vấn ngay khi Tiền tiên sinh nói, ta cũng sẽ không đến đây. Thiếu kiên nhẫn mà muốn giải oan thì không được.”

“Lẽ nào phu nhân có bằng chứng xác thực có thể lật lại bản án?”

“Không có.”

“Vậy phu nhân có ý gì khi đến đây?”

“Ta không có bằng chứng xác thực có thể lật lại bản án, nhưng có đầu mối để điều tra. Đầu mối này cũng do đại nhân đưa ra khi gảy từ khúc trên du thuyền.”

“Xin chỉ giáo?”

“Duyến, Viễn chinh, Kim bảng đề danh, Khổng tướng đông nam phi, Vọng phu quy, trước đây ai cũng cho rằng năm từ khúc này kết hợp với nhau để kêu oan.”

Nhã Lê Lệ nói: “Đúng là kêu oan. Hôm qua nghe Tiền tiên sinh phân tích, ta chỉ nghi ngờ, nhưng giờ nghe phu nhân gảy cầm, ta nghĩ tiên sinh thật sự có ý này.”

“Đúng là có ý đó, nhưng không hoàn toàn.” Cư Mộc Nhi nói, “Trước đây ta chưa từng nghĩ đến khả năng khác, cho đến khi ta nghe đại nhân viết một tình khúc cho tiên sinh.”

“Tình khúc thì thế nào?”

“Năm khúc kết hợp với nhau, chẳng phải là câu chuyện của một người con gái chờ người mình yêu trở về sao?”

Nhã Lê Lệ sửng sốt: “Ý phu nhân là Sư tiên sinh muốn nói với ta tình nghĩa của ông ấy?”

“Không. Nếu là chuyện của Sư tiên sinh, chắc chắn ông ấy sẽ tự mình làm một từ khúc rõ ràng hơn, không cần phải lòng vòng như vậy.”

“Ta không rõ, xin phu nhân nói thêm.”

Cư Mộc Nhi nói: “Sử Thượng thư có một quyển cầm phổ rất hay nhưng lại không chơi được, thế nên mời Sư tiên sinh chơi. Cuối cùng Sử Thượng thư bị hạ độc mà chết, Sư tiên sinh bị oan, cầm phổ không cánh mà bay. Vì thế, cầm phổ là điểm mấu chốt ở đây. Vì sao trước khi chết, Sư tiên sinh phải kết hợp năm từ khúc để kêu oan? Ta nghe từ khúc của bà xong chợt hiểu ra. Sư tiên sinh chọn năm từ khúc đó để ám chỉ với chúng ta ý nghĩa ẩn giấu sau từ khúc của cầm phổ ấy.”

“Một tình khúc?”

“Một cô gái đang yêu chờ chàng trai trở về.”

Nhã Lê Lệ cau mày: “Giết người vì một tình khúc? Tại sao?”

“Chưa rõ, nhưng cũng đáng để tìm hiểu. Chỉ cần biết được ngọn nguồn của từ khúc này là có thể tìm được chút gì đó. Không biết có tương tự với từ khúc của đại nhân không, hay có đến từ Tây Mẫn quốc không.”

Nhã Lê Lệ rảo bước trong phòng, suy nghĩ: “Cô nói đúng. Cho dù có phải là kêu oan hay không thì Sư tiên sinh vẫn có thể sáng tác một bài đơn giản hơn. Chọn năm từ khúc, lại dùng phương thức này, đúng là bỏ dễ làm khó. Chắc chắn ông ấy lo lắng rằng tên hung thủ vẫn ở đó, không muốn hung thủ biết mình truyền tin ra ngoài. Vì thế, ông ấy chỉ có thể đánh cuộc bằng cách này.”

Hung thủ không hiểu, yên tâm rời đi, mong có cầm sư nào đó hiểu để giải oan cho ông.

Nhã Lê Lệ thấy nóng mắt. Bà không dám chắc trước khi chết, Sư tiên sinh đã nghĩ gì, nhưng ông đã bỏ hết công sức để kêu oan, nhưng lại bất lực, chỉ có chút hy vọng nhưng lại xa vời và mạo hiểm vô cùng.

“Nhất định ta sẽ điều tra cẩn thận chuyện này. Chỉ cần có ý nghĩa của từ khúc, ta sẽ điều tra được.” Nhã Lê Lệ lau dòng nước mắt đang chảy, “Chỉ tiếc ta chưa từng thấy cầm phổ, cũng không biết từ khúc nghe thế nào, nhưng ta sẽ không từ bỏ. Phu nhân mạo hiểm để nói cho ta, ta rất biết ơn, nếu một ngày kia có thể giải oan cho Sư tiên sinh…”

Bà còn chưa nói xong, Cư Mộc Nhi đã nói: “Ta biết.”

“Gì cơ?” Nhã Lê Lệ bất ngờ.

“Ta biết từ khúc đó.” Cư Mộc Nhi đưa tay, tiếng đàn vang lên. Cư Mộc Nhi nhẹ nhàng nói: “Ngay cả trong mơ ta cũng nhớ đến từ khúc đó. Từng giờ từng khắc, lúc nào ta cũng lẩm nhẩm, không hề dám quên.” Nàng đã thuộc làu cầm phổ. Hoa Nhất Bạch đã chết. Khi đó, mắt nàng không rõ nhưng tâm nàng vẫn sáng như gương. Bây giờ nàng đã mù hoàn toàn, nhưng suy nghĩ đã thấu tỏ.

Có chuyện Nhã Lê Lệ nói đúng. Nàng rất khó đoán. Nàng đúng là như thế. Cư Mộc Nhi biết mình đa nghi, nhưng không định sửa. Nàng đa nghi hay suy nghĩ, nhưng như thế mới giữ được mạng sống.

Cư Mộc Nhi chơi từ khúc ba lần. Nhã Lê Lệ nghe xong, không nói gì rất lâu, sau đó hít một hơi: “Quả là âm thanh tuyệt vời. Cùng là tình khúc, người này viết hay hơn hẳn ta. Thật là quá hay.”

“Quanh đại nhân chắc chắn toàn những cầm sư tài giỏi, nên đây là một đầu mối khá rõ ràng, mong đại nhân về nước có thể tìm ra.”

Nhã Lê Lệ cũng mong như vậy. Lần tìm hiểu này không phải về tay không, điều này khiến bà rất phấn khởi. Bà đến trước mặt Cư Mộc Nhi, nắm tay nàng cảm ơn, sau đó hạ thấp người. Đúng là phải lạy.

Cư Mộc Nhi sợ hãi đỡ bà dậy. Hai người khích lệ nhau. Nhã Lê Lệ chợt hỏi: “Sư tiên sinh và phu nhân chưa từng gặp gỡ, vì sao phu nhân lại giúp ta?”

Cư Mộc Nhi sờ cây gậy của mình, khẽ nói: “Ta cũng có người thương.”

Nhã Lê Lệ nhìn ra ngoài cửa sổ, là vị Long Nhị gia cứ thỉnh thoảng ngó đầu nhìn ngoài kia?

“Nếu người thương của ta gặp nạn, ta cũng sẽ đau khổ như thế.”

Cư Mộc Nhi nói xong, đứng lên: “Không thể ở đây lâu quá. Tướng công của ta không chờ được. Đã nói hết mọi chuyện, ta xin phép cáo từ.”

Nhã Lê Lệ đồng ý, nhắc Cư Mộc Nhi phương pháp liên lạc, nói sau này nhất định phải giữ liên lạc. Cư Mộc Nhi gật đầu: “Ta còn một suy luận cần được chứng thực. Không biết đại nhân có thể giúp ta một chuyện hay không?”

Nhã Lê Lệ nhận lời.

“Ta muốn nhờ đại nhân đến Tích Xuân đường tìm một cô nương.”

Nhã Lê Lệ ghé tai nghe.

Hôm sau, Nhã Lê Lệ phái người cải trang thành khách mua vui, đến Tích Xuân đường.

Ngày sau nữa, cầm sử của Tây Mẫn quốc lên đường về nước.

Cùng ngày đó, Tích Xuân đường xảy ra một chuyện: cô nương Lâm Duyệt Dao trốn đi, để lại phong thư nói rằng từ nay cô ấy phải rời khỏi kinh thành, về quê theo mẹ. Cô có để lại tiền bạc, tự mình chuộc thân. Tích Xuân đường báo quan tìm kiếm khắp nơi nhưng không tìm được tung tích.