Trung tuần tháng năm, tiết trời đã
vào hạ, cuối cùng quân Giang Bắc cũng đã đến ngoại thành Thái Hưng. Bắc
Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa, nên đã cho Chu Chí Nhẫn lãnh binh lui về phía bắc một trăm dặm, để quân Giang Bắc vào thành Thái Hưng.
Nhưng Vệ Hưng lại chưa vội vàng đưa đại quân vào thành, mà làm theo đề
nghị của A Mạch, hạ lệnh cho đại quân đóng quân ở phía tây thành Thái
Hưng, đồng thời lưu những tướng lĩnh tâm phúc đóng ở trong doanh trại,
chỉ dẫn theo vài vị tướng lĩnh cao cấp cùng vài thuộc hạ văn chức tiến
vào Thái Hưng.
Thành Thái Hưng, là thành lớn nhất
vùng Giang Bắc của Nam Hạ, từ năm Thịnh Nguyên thứ hai đến nay đã bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm! Trong thành vốn dự trữ sung túc nên không hề
xuất hiện thảm kịch người ăn thịt người, nhưng dân chúng trong thành
cũng đã sớm quen với việc nhìn cửa thành đóng chặt mà lo lắng đề phòng
từng ngày. Nay cửa thành đột nhiên được mở ra, lập tức mọi người đều có
chút ngây ngốc, đợi đến khi thấy đoàn quân tiến vào là quân Nam Hạ, dân
chúng tưởng rằng chiến trận bấy lâu nay cuối cùng đã giành được thắng
lợi, vui sướng không kìm nén được mà hoan hô ầm lên, lại có người lấy
pháo ra đốt thả bên đường, nào ngờ khi âm thanh tiếng pháo vẫn còn nổ
giòn bên tai, lại thấy người Bắc Mạc cũng tiến vào cửa thành…
Lần này, dân chúng Thái Hưng đúng là trợn tròn mắt mà nhìn.
Nghị hòa vốn là hai bên đều phải phái sứ thần đến cùng bàn bạc, năm Thịnh Nguyên thứ hai, Nam Hạ và Bắc Mạc
đã từng cùng nghị hòa một lần, nên lần này hai sứ đoàn vừa thấy mặt
nhau, hắc hắc! Quả thật đều là chỗ quen biết cũ! Thế nên, ngay cả màn
giới thiệu cũng miễn, cả hai phái đoàn liền ngồi luôn vào bàn đàm phán!
Trọng tâm nghị hòa lần này, đơn giản
là thông qua đàm phán mà đem tình hình tiến thủ trên chiến trường ra đặt lên bàn cân, tuy rằng mồm mép đôi bên không ngừng đùa bỡn với nhau,
nhưng dựa vào thực lực sau lưng, những gì ở trên chiến trường không
chiếm được thì trên bàn đàm phán, theo thông lệ cũng không thể chiếm
được. Hiện giờ tại vùng Giang Bắc, ngoại trừ thành Thái Hưng đang trong
trạng thái bấp bênh, còn lại hầu như đã rơi vào tay người Bắc Mạc, vậy
thì thử nói xem chữ “Hòa” này nên đàm pháp như thế nào?
Sứ đoàn nghị hòa của Nam Hạ chịu áp
lực rất lớn! Trước khi lâm trận, hoàng đế đã có mật chỉ rằng: Không được để mất đất, tiền cống hàng năm không ngại nhiều hay ít, có tăng tới
trăm vạn cũng không tiếc. Lời này nói trắng ra chính là, chỉ cần không
cắt đất, còn bồi thường bao nhiêu tiền ta cũng không quan tâm! Nhưng vấn đề ở chỗ, người ta chẳng những muốn ngươi nhất định phải bồi thường
tiền, mà còn muốn ngươi đem nửa vùng Giang Bắc cũng phải nhượng lại cho
anh ta! Mục tiêu của hai bên quá khác xa nhau, thật đúng là không có
cách nào để đàm phán!
Cao Cát xoa tay bối rối, ái chà chà,
đây chẳng phải là muốn lấy mạng của hắn ta sao! Chẳng có cách nào, chỉ
có thể đem tình huống trước mắt mà hồi tấu lên triều đình vậy. Đợi nửa
tháng sau, trong triều cuối cùng cũng có hồi âm, nói rằng có thể giao Dự Châu cho Bắc Mạc, nhưng Thái Hưng thì quyết không thể. Cao Cát được
triều đình tin tưởng, lại tiếp tục cùng sứ thần Bắc Mạc biện luận, nhưng sứ thần Bắc Mạc là Trương Vương lại mồm miệng xảo quyệt, thế nào cũng
kiên trì đòi Nam Hạ phải nộp cống. Cao Cát bất đắc dĩ đành phải lần nữa
hồi tấu lên triều đình.
Lần này hồi âm của triều đình lại mất rất nhiều thời gian, chư tướng chỉ biết trong triều cùng thát tử nghị
hòa, lại không biết việc nghị hòa diễn ra như thế nào. A Mạch hộ tống Vệ Hưng ở trong thủ phủ thành Thái Hưng, song rất ít khi nhàn rỗi, mỗi
ngày đều luyện võ trong sân, đồng thời cũng ở cùng với các tướng lãnh
khác vừa đến thành Thái Hưng. Chư tướng trong quân Giang Bắc được nghe
chuyện A Mạch lập kì công, cứu quân Giang Bắc từ thoát khỏi nguy nan,
hiện nay lại thấy nàng không hề cậy công mà kiêu ngạo, ngôn từ cử chỉ vô cùng bình dị gần gũi, vì thế càng trở nên kính trọng.
Người Nam Hạ tự xưng là đất nước của
lễ nghi, luôn dùng lễ để đối đãi với người ngoài, nên đối với sứ đoàn
Bắc Mạc cùng tướng lãnh hộ vệ lại càng tương kính như tân. Nhưng quân
Giang Bắc và Bắc Mạc giao chiến đã lâu, mọi người trong quân đối với
thát tử có nhiều nỗi phẫn hận, mỗi lần ở trong thành Thái Hưng nhìn thấy thát tử đều khó tránh khỏi tức giận, nhất thời nóng nảy không kiềm chế
được liền rút đao xông vào, mặc dù Vệ Hưng ban nghiêm lệnh ngăn cấm,
nhưng trong thành, tướng sĩ hai bên lại vẫn thường xuyên xảy ra xô xát.
Vệ Hưng vài lần định giết người lập
uy, nhưng vì A Mạch ở bên cạnh ra sức khuyên can mới bảo vệ được tính
mạng của mấy tướng lãnh kia. A Mạch khuyên Vệ Hưng: “Đại tướng quân giữa chừng tiếp nhận quân Giang Bắc, tướng lãnh trong quân vốn coi trọng
Đường tướng quân hơn đại tướng quân, đại tướng quân không nghĩ cách làm
thế nào thu phục lòng người, trái lại lại muốn làm ác nhân. Giết chết
vài người cũng không tính là gì, nhưng vì thế mà làm tổn hại đến quân
tâm, về sau đại tướng quân sao có thể lĩnh quân được nữa?”
Vệ Hưng nghe A Mạch nói thẳng băng
như thế, nhất thời trố mắt, nỗi tức giận trong lòng cũng tiêu tan đi quá nửa, chỉ phạt mấy tướng lãnh này mấy chục quân côn rồi thôi, từ đó về
sau đối với A Mạch càng nể trọng hơn, đối đãi với nàng như tâm phúc của
mình.
Tháng sáu, thời tiết càng lúc càng
nóng, A Mạch lại càng ít khi ra ngoài, mỗi ngày đều ngồi lỳ trong phòng
đọc sách, ngay cả đến thăm Đường Thiệu Nghĩa cũng rất ít đi. Một ngày
nọ, trong lúc A Mạch đang lười biếng nằm trên ghế dài đọc sách, Trương
Sĩ Cường từ bên ngoài đi nhanh vào, chưa nói gì mà trước hết uống cạn
một chén nước lạnh, lúc này mới nhỏ giọng nói: “Đại nhân, có hồi âm của
Từ tiên sinh.”
A Mạch vục dậy, nói: “Lấy ra đây!”
Trương Sĩ Cường cẩn thận lấy phong
thư từ trong người ra đưa cho A Mạch. Thư vẫn còn phong kín, A Mạch mở
ra, thấy cũng chỉ có tám chữ: Phi binh bất cường, phi thương bất phú1). A Mạch nhất thời không nói gì, trong lòng thầm mắng lão thất phu Từ Tĩnh, tất nhiên là nàng biết nếu có sự tương trợ của Thương Dịch Chi, quân
Giang Bắc sẽ dễ như trở bàn tay, nhưng giờ nàng biết đi tìm Thương Dịch
Chi ở đâu!
A Mạch thấp giọng mắng Từ Tĩnh mấy
lần, ngẩng đầu lên thấy Trương Sĩ Cường đang dùng vẻ mặt khẩn trương
nhìn mình, không khỏi cười cười, lấy thư giao cho anh ta đem đốt. Trương Sĩ Cường cẩn thận tiêu hủy lá thư, quay lại nhìn A Mạch, thấp giọng
hỏi: “Đại nhân, làm sao bây giờ?”
A Mạch muốn làm gì bây giờ? Nàng trầm ngâm một lát, đột nhiên ngẩng đầu nói với Trương Sĩ Cường: “Nhị Đản,
lần này e là ngươi phải tự mình đi Thịnh Đô một chuyến rồi.”
Trương Sỹ Cường khẽ giật mình, nhưng cũng không hỏi vì sao, chỉ hỏi: “Khi nào thì đi?”
A Mạch nói: “Đợi ta nghĩ ra một lý do quang minh chính đại đã.”
Ai ngờ không cần A Mạch phải nghĩ ra
lý do quang minh chính đại nào cho Trương Nhị Đản đi Thịnh Đô thì Thương Dịch Chi đã tự mình từ Thịnh Đô đến Thái Hưng. Khi A Mạch biết được tin tức này từ Vệ Hưng, không khỏi có chút kinh ngạc, phái nhân vật cao
nhất của phe chủ chiến đến nghị hòa, chữ “Hòa” này có thể bàn được sao?
Chẳng qua là mặc kệ “Hòa” như thế nào đi chăng nữa, chỉ nói riêng chuyện Thương Dịch Chi sẽ đến Thái Hưng, A Mạch cũng đã vừa mừng vừa sợ, trong lòng lại thầm mắng lão thất phu Từ Tĩnh quả nhiên có chút bàng môn tả
đạo(2).
Ngày mười chín tháng sáu, Vĩnh xương
hầu Thương Dịch Chi tới Thái Hưng, tiếp nhận nhiệm vụ của Cao Cát, cùng
Bắc Mạc tiến hành đàm phán. Cao Cát đúng là kinh hỉ vạn phần, bàn giao
cho Thương Dịch Chi xong, liền đóng gói đồ đạc hồi kinh báo cáo công
tác.
Đêm đến, thủ thành Thái Hưng là Vạn
Lương đặt tiệc rượu tẩy trần cho Thương Dịch Chi ở tửu lâu bậc nhất
trong thành, mời Vệ Hưng và các tướng lĩnh cùng tham dự.
Trong bữa yến tiệc, Thương Dịch Chi
không mặc quan phục, đầu đội kim quan, thân mặc màu áo bào trắng, bên
hông đeo ngọc bội, mặt như mĩ ngọc, mắt sáng như sao, cử chỉ phong lưu. A Mạch đã thấy qua dáng vẻ này của anh ta, nên cũng chẳng lấy gì làm lạ,
nhưng Đường Thiệu Nghĩa và chư tướng trong quân Giang Bắc lại chỉ nhớ
rõ Thương nguyên soái tuấn nhan lạnh lùng trong một thân nhung trang,
giờ chợt nhìn thấy một Thương Dịch Chi dáng vẻ phong lưu như thế, nhất
thời đều có chút ngây ngốc, sau đó không hẹn mà cùng nhìn về phía A Mạch âm thầm so sánh, phát hiện ra Thương Dịch Chi hiện giờ so với A Mạch
vốn nổi tiếng là tiểu bạch kiểm trong quân Giang Bắc còn trắng hơn đôi
phần.
Thương Dịch Chi trước cùng Vệ Hưng
hàn huyên vài câu, sau lại quay đầu nhìn về phía chư tướng, khẽ cười
nói: “Chư vị, lâu rồi không gặp.”
Chư tướng lúc này mới phục hồi tinh
thần, nhất tề hướng về phía Thương Dịch Chi làm lễ chào hỏi. Đợi mọi
người chào xong, lại chiếu theo thân phận và địa vị mà ngồi xuống, tiệc
rượu lúc này mới bắt đầu. Thái Hưng chính là tòa thành lớn nhất vùng
Giang Bắc, sự phồn hoa tất nhiên những nơi khác không thể sánh bằng,
thành Thái Hưng mặc dù bị bao vây hai năm, nhưng trong thành, rượu ngon
và thức ăn ngon vẫn như trước không hề thiếu, khiến cho chư tướng quân
Giang Bắc từ núi Ô Lan đến đây được một phen đại khai nhãn giới.
Thành thủ Vạn Lương lại nghe nói
Thương Dịch Chi phong lưu thành tiếng, nên cố ý mời ca cơ đến tiếp
khách, không chỉ Thương Dịch Chi, mà bên cạnh Vệ Hưng cũng có mỹ nhân
bồi rượu, ngay cả A Mạch và các tướng quân Giang Bắc mỗi người cũng có
một mỹ nhân.
A Mạch vốn tạm thời nhận chức hữu phó tướng quân Giang Bắc của Lý Trạch, cùng Đường Thiệu Nghĩa ngồi chung
một bàn tiệc, thấy dáng ngồi của anh ta thẳng đơ nghiêm chỉnh không khỏi cười thầm, mượn lúc uống rượu thấp giọng nói: “Đại ca, đây chỉ là một
bữa yến tiệc, huynh cứ thả lỏng bản thân mà thoải mái một chút đi.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy khẽ gật
đầu, song thân hình vẫn bất động như cũ. A Mạch thấy vậy thì cười bất
đắc dĩ, không nói thêm nữa, chỉ cùng mọi người uống rượu.
Rượu uống chưa tới tầm, nhưng mọi
người đã không còn câu thúc giống như lúc ban đầu, có người bắt đầu trêu ghẹo ca cơ bên cạnh. Trên bàn tiệc của Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch, ca cơ thấy cả hai người đều là nam tử tuổi trẻ tuấn lãng, ngôn ngữ cử chỉ
có nhiều phần khiêu khích, A Mạch chỉ khẽ cười không quan tâm, nhưng
Đường Thiệu Nghĩa ngồi bên cạnh thì lại vừa thẹn vừa quẫn.
Ca cơ kia mượn cớ mời rượu mà dựa sát vào người Đường Thiệu Nghĩa, hù Đường Thiệu Nghĩa phải tránh vội sang
một bên, vì thế lập tức ngã vào người A Mạch. A Mạch lúc đó trong tay
vốn đang cầm chén rượu, nghiêng tai lắng nghe Thương Dịch Chi và Vệ Hưng nói chuyện, lại bị Đường Thiệu Nghĩa va vào suýt nữa thì làm đổ, không
khỏi quay lại có chút ngạc nhiên nhìn Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu
Nghĩa lại hiểu lầm ý của A Mạch, tưởng nàng nghĩ anh ta không làm chủ
nổi bản thân, nhất thời cảm thấy vô cùng xấu hổ, trong cơn tức giận liền đẩy mạnh ca cơ ra, đứng bật dậy khỏi bàn tiệc.
Mọi người thấy Đường Thiệu Nghĩa đẩy
ngã ca cơ rồi đột nhiên đứng dậy đều ngẩn ra, nhất tề đều nhìn về phía
anh ta. Vạn Lương đưa mắt nhìn ca cơ vẫn nằm úp sấp trên chiếu, bất động thanh sắc hỏi: “Đường tướng quân có gì không vừa lòng sao?”
Đường Thiệu Nghĩa mặt mũi đỏ bừng,
nghẹn ngào nói không ra lời. A Mạch vội đưa tay kéo Đường Thiệu Nghĩa
ngồi xuống, cười nói với Vạn Lương: “Vạn đại nhân không biết đấy thôi,
Đường tướng quân da mặt mặc dù rất đen nhưng lại rất mỏng, bình thường
khi có cô nương nào nhìn một chút đều không dám ngẩng mặt lên nhìn, hôm
nay lại có mỹ nhân muốn ngồi vào lòng anh ta, anh ta nhất thời đâu thể
tiêu hóa nổi? Vốn cũng muốn ôm ấp mỹ nhân, nhưng nhất thời kích động,
gấp đến độ lập tức đứng bật dậy.”
A Mạch nói rất khôi hài, khiến Đường Thiệu Nghĩa đỏ thẫm mặt, mọi người sửng sốt rồi cùng bật cười ha hả.
Còn Đường Thiệu Nghĩa cả người không
được tự nhiên, ca cơ bên cạnh giờ thành thành thật thật ở một bên phụng
rượu, không hề dám khiêu khích nữa, nhưng trong đầu Đường Thiệu Nghĩa
lại luôn không khống chế được mà nghĩ về cảm giác khi đụng chạm vào
người A Mạch, càng nghĩ càng cảm thấy trên mặt nóng bừng, khuôn mặt ngăm đen càng lúc càng đỏ gay gắt.
Thương Dịch Chi thu hết trạng thái
quẫn bách của Đường Thiệu Nghĩa vào trong mắt, khẽ cười, quay đầu thấp
giọng nói với Vạn Lương câu gì đó, Vạn Lương khẽ sửng sốt giật mình, vô
cùng kinh ngạc nhìn Đường Thiệu Nghĩa.
A Mạch biết điều mà Thương Dịch Chi
và Vạn Lương nói tất nhiên là liên quan đến Đường Thiệu Nghĩa, không
khỏi giương mắt nhìn Thương Dịch Chi, đúng lúc chạm vào tầm mắt của anh
ta, A Mạch đón nhận ánh mắt của Thương Dịch Chi chỉ thản nhiên cười
cười. Nhưng Thương Dịch Chi thì lại khẽ run lên, sau đó dấu diếm đưa tầm mắt đi nơi khác.
————————-
Chú thích:
1- Phi binh bất cường, phi thương bất phú: Không có quân đội không thể mạnh, không có giao thương buôn bán
không thể giàu. Ở đây Từ Tĩnh chơi chữ, “phi thương bất phú” hiểu theo
nghĩa bóng là không có Thương Dịch Chi thì quân Giang Bắc không thể phát triển thuận lợi.
2- Bàng môn tả đạo
Bàng: Bên cạnh. Môn: Cửa. Tả: Trái lẽ, không chánh. Ðạo: Tôn giáo.
Bàng môn là cửa hông, không phải cửa
chánh. Tả đạo là tôn giáo sai trái. Bàng môn Tả đạo là chỉ chung các tôn giáo, học thuyết dẫn dắt con người vào đường tà vạy quanh co, có xu
hướng trục lợi cầu danh, không đạt được kết quả chơn chánh.
Bàng môn Tả đạo do Quỉ Vương lập ra,
để kình chống và giành giựt nhơn sanh đối với các Chánh đạo do các Ðấng
Phật, Tiên mở ra hay do Ðức Chí Tôn mở ra.
Với trí xét đoán phàm phu, chúng ta
khó phân biệt đâu là Chánh đạo, đâu là Tả đạo Bàng môn, vì Tả đạo được
Quỉ Vương phủ lên một lớp nước sơn hoa mỹ tinh vi; chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật đều bị chúng mạo danh, lại còn dùng nhiều hình thức huyền
diệu hơn cả chánh đạo, để mê hoặc nhơn sanh.
Ở đây, ý A Mạch muốn ám chỉ việc Từ
Tĩnh cố tình giả thần lộng quỷ, sử dụng cách nói bóng nói gió để truyền
đạt một việc mà ai cũng biết rồi.