A Mạch Tòng Quân

Chương 96: Nghị hòa




A Mạch gật đầu, xoay người quay trở về doanh trại. Trong doanh, mặc dù từ miệng của Trương Sĩ Cường, mọi người đã biết A Mạch bình an trở về, nhưng khi thực sự nhìn thấy nàng vẫn không nén được một phen hoan hô kích động, ngay cả Hắc Diện ngày thường vốn rất kiệm lời, hôm nay cũng cười ngoác cả miệng, nói gì đến đám người Lý Thiếu Hướng và Vương Thất, tất cả mọi người đều cười hì hì vây quanh A Mạch, hỏi han nàng chuyện trải qua mấy ngày vừa rồi, A Mạch lại đem những lời nửa thật nửa giả đã nói ở trong trướng của Vệ Hưng nói lại một lần nữa, mọi người nghe xong đều vừa sợ lại vừa thán phục, nói rằng A Mạch đúng là có số cát nhân thiên tướng, lần này đại nạn không chết tất sẽ được hưởng phúc đến cuối đời.

A Mạch chỉ cười, rồi tiễn mọi người ra ngoài, lúc này mới sai Trương Sĩ Cường chuẩn bị quân trang cho nàng thay, lại dặn: “Ta ngủ một lát, một lúc nữa cho người đến gọi ta dậy, ngươi cũng không phải canh gác đâu, đi ngủ đi, khoảng đầu giờ chiều thì đến đây.”

A Mạch quả nhiên đoán không sai, đến đầu buổi chiều, quân Giang Bắc đã chuẩn bị đâu vào đấy, bắt đầu lui về phía đông.

Trên núi Nhạn Sơn, Thường Ngọc Tông được quân sĩ hồi báo rằng quân Giang Bắc bắt đầu rút quân, trong lòng kinh ngạc, liền hỏi Thường Ngọc Thanh: “Thất ca, bọn mọi rợ rút quân như thế liệu có trá không?”

Thường Ngọc Thanh im lặng không nói gì, anh ta trở về sớm hơn so với A Mạch, thừa dịp đêm tối liền lẻn lên núi Nhạn Sơn, vừa lên đến nơi đã tiến hành an bài lại tuyến phòng ngự, không ngờ quân Giang Bắc lại rút quân. Thường Ngọc Tông thấy anh ta trầm mặc cũng không dám quấy rầy, chỉ yên lặng đứng một bên, đợi lát sau mới nghe Thường Ngọc Thanh nói: “Trước cứ quan sát cho kỹ rồi hẵng hay.”

Hai người đi đến điểm cao nhìn, quả nhiên thấy dưới núi, quân Giang Bắc đã nhổ trại đi về hướng đông. Là A Mạch sự thật muốn thủ tín thả anh ta xuống núi hay là nàng lại có quỷ kế gì khác đây? Thường Ngọc Thanh nhất thời cũng không có cách nào xác định được.

Thường Ngọc Tông thấy quân Giang Bắc đúng là rút lui thật, không khỏi ngạc nhiên nói: “Thất ca, đúng là bọn mọi rợ Nam Hạ rút lui thật.”

Thường Ngọc Thanh nghĩ nghĩ, rồi nói với Thường Ngọc Tông: “Ngươi chọn lấy một ít tướng sĩ khỏe mạnh truy kích phía sau quân Giang Bắc.”

Trong lòng Thường Ngọc Tông cảm thấy vô cùng kỳ lạ, thầm nghĩ quân Giang Bắc rời đi như vậy như vậy, ta thắp hương cầu trời khấn phật còn chẳng được, giờ lại còn truy kích bọn họ làm gì? Nhỡ đâu làm thế lại khiến bọn chúng quay lại thì sao? Chẳng lẽ lại đem ngót nghét một vạn tàn binh bại tướng chạy lên núi lần nữa? Lại nói viện quân Dự Châu đúng là sẽ đến, nhưng chúng ta là kẻ cầm quân đánh giặc, trong lòng đều biết điểm chí tử này, cho dù chúng ta có thể cầm cự đợi được viện quân, thì có đến ngàn cái miệng sợ là cũng không đủ thanh minh, tự mình làm đá kê chân cho kẻ khác, hỏi rằng có mệt hay không!

Thường Ngọc Tông do dự một chút rồi nói: “Nếu mọi rợ Nam Hạ cố ý lừa chúng ta mắc mưu thì làm sao bây giờ? Chúng ta xuống núi truy kích, chẳng phải sẽ rơi vào quỷ kế của bọn họ sao?”

Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, giải thích: “Ngươi chỉ đuổi theo nhưng không cần giao chiến, yên tâm, nếu quân Giang Bắc quay lại thì ngươi cứ đem binh quay trở về.”

Thường Ngọc Tông lại càng hồ đồ, hỏi: “Vì sao phải làm thế?”

Thường Ngọc Thanh quan sát quân Giang Bắc đang rút đi dưới núi, khẽ cười nói: “Người lắm mưu nhiều kế nhất định cũng là người đa nghi, ngươi truy kích ở phía sau, hắn tất nhiên nghĩ là ngươi cố ý dây dưa, sợ là sẽ càng chạy nhanh hơn.”

Tuy Thường Ngọc Tông bán tín bán nghi, nhưng cũng không dám trái ý thất ca, lập tức tuyển ra năm trăm tinh binh truy kích quân Giang Bắc. Trên đùi Thôi Diễn bị chém một đao, vốn đang ở trong trướng dưỡng thương, nghe được tin này liền vội vội vàng vàng tới tìm Thường Ngọc Thanh, vừa mở miệng đã kêu lớn: “Đại ca, cho ta dẫn quân đi truy kích!”

Thường Ngọc Thanh đang cẩn thận lau thanh chủy thủ của A Mạch, nghe vậy không buồn ngẩng đầu lên, chỉ thản nhiên nói: “Không được.”

Thường Ngọc Tông lại cả giận nói: “Còn muốn đuổi sao! Ngươi ba lần bảy lượt đều bị bắt, nếu không phải tại ngươi, thất ca sao phải chịu khốn đốn nhiều ngày như vậy, chúng ta cũng không bị thiệt hại mất mấy ngàn nhân mã, cũng không phải lưu lạc ở đây!”

Thôi Diễn gân cổ cãi: “Cái này đâu thể trách ta, ta đã sớm nói từ trước là cứ một đao chém quách Mạch Tuệ đi cho xong việc, nhưng đại ca…”

Thường Ngọc Thanh ngẩng phắt đầu lên nhìn Thôi Diễn, Thôi Diễn bị ánh mắt sắc bén của anh ta chiếu vào thì phát sợ, nửa câu nói còn lại mắc nghẹn trong cổ họng không sao thoát ra được, chỉ cúi đầu nhỏ giọng ngập ngừng nói: “Dù sao… cũng không thể trách một mình ta được.”

Thường Ngọc Thanh lại cúi đầu, chậm rãi lau thanh chủy thủ, nói: “Ngọc Tông, ngươi dẫn quân truy kích, nhớ lấy, không cần giao chiến.”

Thường Ngọc Tông lĩnh mệnh mà đi. Thôi Diễn liếc mắt nhìn trộm Thường Ngọc Thanh, thấy trên mặt anh ta không biểu lộ là vui hay giận, trong lòng càng hối hận, đang cân nhắc xem nên mở miệng như thế nào, lại nghe Thường Ngọc Thanh đột nhiên nói: “Ngươi nói đúng.”

Thôi Diễn sửng sốt, thận trọng nói : “Đại ca, kỳ thật…”

Thường Ngọc Thanh ngẩng đầu lên nhìn Thôi Diễn, khuôn mặt bình tĩnh nói: “Thật ra ngươi nói đúng, nếu ta vừa gặp liền giết nàng ngay thì đã không rơi vào quỷ kế của nàng, về sau cũng không xảy ra nhiều chuyện như vậy.” Thường Ngọc Thanh nhẹ nhàng đứng dậy, đi được vài bước, giơ thanh chủy thủ trong tay lên, xoay người cười nói với Thôi Diễn: “A Diễn, lần sau nếu ngươi thấy nàng, thì cứ thẳng tay mà giết.”

Thôi Diễn nhất thời trố mắt nói không ra lời……

Thịnh Nguyên mùa xuân năm thứ tư, quân Giang Bắc vây Nhạn Sơn không thành liền rút quân về hướng tây, ngoài dự đoán của mọi người, Thường Ngọc Tông vậy mà lại mang binh đuổi theo, đại tướng quân Vệ Hưng quân Giang Bắc nghĩ Thường Ngọc Tông cố ý muốn đeo bám theo nên cũng không để ý tới, chỉ mang binh quay về phía tây, tới một thành nhỏ là Thuận Bình liền cho đại quân nghỉ ngơi hồi phục. Ai ngờ vừa đến Thuận Bình được hai ngày, lại nhận được thánh chỉ từ triều đình.

Vệ Hưng cho gọi A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa vào trong trướng, đưa thánh chỉ ra, lúc này mới nói: “Vừa mới nhận được thánh chỉ trong triều, muốn chúng ta lập tức lui về Thái Hưng.”

Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch nghe vậy đều sửng sốt, không khỏi hỏi: “Lui về Thái Hưng?”

“Không sai,” Vệ Hưng gật đầu, chậm rãi nói: “Triều đình và Bắc Mạc nghị hòa.”

“Ở Thái Hưng nghị hòa?” Đường Thiệu Nghĩa hỏi.

Vệ Hưng đáp: “Đúng vậy, cho nên muốn quân ta lập tức lui về Thái Hưng. Bắc Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa nên đã đồng ý cho đại quân của Chu Chí Nhẫn rút lui về phía bắc Thái Hưng, quân ta tiến vào thành Thái Hưng cùng quân giữ thành đợi sứ đoàn hai nước đến đó nghị hòa.”

A Mạch cụp mắt xuống không nói gì, nhưng trong lòng lại không ngừng dấy lên từng cơn sóng to gió lớn, nghị hòa, đúng là nhất định sẽ nghị hòa ư! Nếu nghị hòa, nàng làm sao có thể thay phụ thân đánh bại Trần Khởi? Nếu nghị hòa, hai năm vất vả liều mạng của nàng để làm gì? A Mạch đột nhiên nhớ tới trước khi đưa quân ra khỏi núi Ô Lan, Từ Tĩnh từng hỏi mình: “A Mạch, vì sao ngươi lại tòng quân?” A Mạch biết nếu nói là vì trung quân ái quốc sẽ không thể lừa được lão hồ ly Từ Tĩnh, đang muốn biên soạn một chút lý do hợp lý để trả lời Từ Tĩnh thì ông ta lại hỏi tiếp: “Nếu quân Giang Bắc ra trận mà không đánh, nếu quân Giang Bắc không còn tồn tại nữa, thì ngươi sẽ làm thế nào? Ngươi sẽ cảm thấy ra sao?”

A Mạch nhất thời bị ông ta hỏi vậy thì nghẹn họng lại nhìn trân trối, một nửa vùng Giang Bắc đều nằm dưới gót sắt của thát tử, vì sao ra trận mà lại không đánh? Quân Giang Bắc lập được nhiều chiến công, thanh thế đang vô cùng mạnh mẽ, sao lại không còn tồn tại nữa? Từ Tĩnh nhìn A Mạch nở nụ cười, nói: “Ngươi không cần trả lời ta, cứ tự mình suy nghĩ cho cẩn thận, ngày khác tất sẽ dùng đến.”

Lúc ấy, A Mạch còn có chút buồn bực không hiểu vì sao Từ Tĩnh lại hỏi những câu kỳ quái như thế, hiện giờ nghĩ lại, thì ra ông ta đã sớm đoán được là sẽ có chuyện ngày hôm nay.

Lại nghe Đường Thiệu Nghĩa căm phẫn nói: “Còn muốn nghị hòa ư? Chẳng lẽ chỉ cần bàn bạc là có thể khiến lũ thát tử tự mình rời khỏi Tĩnh Dương quan sao? Nếu không phải vì triều đình nghị hòa, thì từ năm thứ hai Thịnh Nguyên chúng ta đâu bị thát tử công phá cửa khẩu Tĩnh Dương! Hiện giờ thát tử đã chiếm một nửa vùng Giang Bắc của ta, trong triều lấy cái gì để cùng thát tử nghị hòa?”

Sắc mặt Vệ Hưng bình tĩnh, chỉ nhìn Đường Thiệu Nghĩa chằm chằm, lạnh lùng nói: “Quân lệnh như sơn!”

Đường Thiệu Nghĩa đón ánh mắt của Vệ Hưng, gằn từng tiếng đáp: “Tướng bên ngoài biên ải, quân lệnh có điều không thể nghe theo!”

Trong mắt Vệ Hưng lóe tinh quang, hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Chẳng lẽ Đường tướng quân muốn kháng chỉ sao? Hay là muốn dấy binh tạo phản?”

Đường Thiệu Nghĩa bị Vệ Hưng hỏi thì nghẹn lời, anh ta từ nhỏ đã chịu sự giáo dục về một tinh thần trung quân ái quốc, hai tội danh lớn như vậy không khác gì sấm nổ bên tai, khiến anh ta không thể nói nên lời.

Vệ Hưng thấy Đường Thiệu Nghĩa không cách nào chống đỡ, lại nói tiếp: “Trong triều muốn nghị hòa cũng có đạo lý của họ, thủy quân của Chu Chí Nhẫn đã luyện thành, hùng cứ ở Thái Hưng, đối với Giang Nam khác nào hổ rình mồi, việc bình định Vân Tây vẫn chưa có kết quả, trong triều thật sự không có cách nào dụng binh từ hai mặt, Giang Bắc tuy có đại quân của chúng ta, nhưng chúng ta đang chịu cảnh bao vây và bị cô lập từ bốn phía, thật khó có thể tạo nên sự chuyển biến lớn. Ta thấy triều đình nghị hòa chẳng qua là kế sách thích ứng tạm thời mà thôi, thừa dịp quân ta vừa đánh bại hai lộ quân, trước mắt cứ tạm thời bảo tồn thực lực, đợi sau khi bình định Vân Tây xong sẽ bàn bạc kỹ hơn!”

Vệ Hưng nói xong, lại nhìn về phía A Mạch vẫn đang cúi đầu trầm mặc, hỏi: “Mạch tướng quân, ngươi thấy thế nào?”

A Mạch lập tức dấu đi cảm xúc trong mắt, ngẩng đầu đáp: “Đại tướng quân nói có lý, tình huống hiện giờ của quân ta quả thật không nên tiếp tục cùng thát tử đối kháng trực diện, nếu như có thể vào Thái Hưng nghỉ ngơi hồi phục, thật ra đối với quân ta chỉ có lợi chứ không có hại!”

Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy thì vô cùng sửng sốt, còn Vệ Hưng thì mừng rỡ, khen A Mạch đôi câu, lại quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, hỏi: “Ý Đường tướng quân thế nào?”

Đường Thiệu Nghĩa nhẫn nhịn, hướng về phía Vệ Hưng ôm quyền nói: “Mạt tướng tuân theo sự sắp sếp của đại tướng quân!”

Vệ Hưng cười cười, hạ lệnh đại quân sau khi tạm thời nghỉ ngơi hồi phục, liền xuất phát tiến về Thái Hưng.

Đường Thiệu Nghĩa từ chỗ của Vệ Hưng đi ra, sắc mặt vẫn không tốt, cũng không để ý tới A Mạch, chỉ bước nhanh ở phía trước. A Mạch đuổi theo mấy bước tiến lên ngăn Đường Thiệu Nghĩa lại, kéo anh ta đến một chỗ không có người, lúc này mới thử hỏi: “Đại ca, chẳng lẽ ngươi muốn tạo phản?”

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong cả giận: “A Mạch, tại sao ngươi cũng hỏi như thế?”

A Mạch trong lòng hơi thất vọng, trên mặt cũng không biểu lộ ra, chỉ khuyên nhủ: “Huynh không muốn tạo phản, thánh chỉ cũng đã đến, huynh còn muốn như thế nào nữa? Chẳng lẽ kháng chỉ sao? Nhưng đó lại là tội danh chu di cửu tộc.”

Đường Thiệu Nghĩa nghiêm nghị nói: “Diệt trừ thát tử, khôi phục lại non sông là bổn phận của ta, tận trung báo quốc đâu lý nào lại sợ chết!”

A Mạch lại nói: “Không chịu tuân theo quân lệnh đó chính là kháng chỉ, vì thế cũng vẫn tạo mối nghi là có mầm phản loạn, về sau nếu có đuổi thát tử ra khỏi cửa khẩu Tĩnh Dương thì cũng sẽ bị tru di cửu tộc. Huynh có thể không sợ chết, nhưng thân nhân gia quyến đại tướng quân đều ở Thịnh Đô, huynh muốn anh ta phải làm thế nào?”

Đường Thiệu Nghĩa biết A Mạch nói có lý, nhưng trong lòng vẫn tức giận, dùng chân đá một cước vào góc tường, không cam lòng nói: “Nghị hòa như vậy thật khiến cho người ta phải uất nghẹn!”

A Mạch lo nghĩ, hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, nếu triều đình đem vùng Giang Bắc giao cho thát tử, thì huynh tính thế nào?”

Đường Thiệu Nghĩa không nghĩ đến vấn đề này, lập tức có chút kinh ngạc, hỏi lại A Mạch: “Triều đình đâu thể nào đem Giang Bắc giao cho thát tử? Nếu như vậy, thì quân Giang Bắc của chúng ta phải làm sao bây giờ?”

A Mạch lạnh nhạt đáp: “Nếu như tặng thật, có lẽ sẽ điều quân Giang Bắc về phía nam.” Nàng đưa mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa, tiếp tục hỏi: “Đại ca, huynh sẽ tính thế nào? Có theo quân đi về phía nam không?”

Đường Thiệu Nghĩa không rõ A Mạch vì sao phải kiên trì hỏi vấn đề này, chỉ yên lặng nhìn A Mạch, kiên định đáp: “Nếu triều đình thật sự muốn nhượng lại vùng Giang Bắc cho thát tử, ta liền từ quan không làm nữa, ở lại Giang Bắc chiêu tập tráng sĩ có chí khí phất cờ khởi nghĩa, diệt trừ thát tử!”

Nghe anh ta trả lời như vậy, trong lòng A Mạch hơi có chút an ủi, trên mặt không khỏi khẽ mỉm cười, Đường Thiệu Nghĩa nhất thời nhìn đến thất thần, chờ đến khi A Mạch gọi một hồi anh ta mới hồi phục lại tinh thần, lập tức thẹn thùng, vội dời tầm mắt đi, có chút bối rối hỏi A Mạch: “Ngươi thì sao? A Mạch, ngươi sẽ làm thế nào?”

A Mạch lại nhướn mày, cười nói: “Ta khó khăn lắm mới làm được tới chức quan này, đâu thể dễ dàng từ bỏ như vậy!”

Nhiệt tình đầy ắp của Đường Thiệu Nghĩa không khác gì bị A Mạch hắt cho một bát nước lạnh, trong lòng chỉ cảm thấy vô cùng lạnh lẽo, cố gắng mỉm cười, nói: “Mỗi người một chí hướng.”

A Mạch thấy thần sắc trên mặt Đường Thiệu Nghĩa thay đổi, biết trong lòng anh ta đang thất vọng đến cực điểm, cũng không nói toạc ra, chỉ cười nói: “Được rồi, đại ca, đừng vội nghĩ về chuyện sau này sẽ như thế nào nữa, cứ chờ đến khi quay trở lại Thái Hưng xem tình hình thế nào đã rồi nói sau.”