Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, mấy thân binh
bên cạnh A Mạch đã đánh khẽ vào người anh ta, Lâm Mẫn Thận theo bản năng trầm bả vai xuống, đưa một tay lên bả vai của mình, ngón tay nhanh
chóng nắm lấy cổ tay của người nọ, đang muốn phát lực thì lại thay đổi
chủ ý, vội dấu dấu diếm diếm buông lỏng bàn tay, tránh né tượng trưng
vài cái rồi để mặc cho mấy thân binh kia trói anh ta lại, ngoài miệng
vẫn thấp giọng cả giận nói: “Mạch Tuệ! Ngươi muốn làm gì!”
A Mạch không quay đầu, chỉ thấp giọng quát: “Bịt nốt miệng hắn lại cho ta!”
Thân binh lại tiến lên tùy ý tìm một
mảnh vải bố nhét vào miệng Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận chỉ thấy trong
miệng tràn đầy vị tanh tưởi, khiến anh ta thiếu chút nữa thì lăn ra hôn
mê bất tỉnh.
A Mạch vẫn chăm chú nhìn vào khe núi, đến khi đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu đều ra khỏi khe
núi cũng không phát lệnh tấn công. Cứ như vậy, đừng nói là Lâm Mẫn Thận, mà ngay cả những người khác cũng cảm thấy vừa sợ vừa nghi, thầm nghĩ
chẳng lẽ A Mạch muốn thả thát tử ra khỏi khe núi. Nhưng đội quân thát tử này cùng lắm chỉ mấy ngàn người, còn chưa bằng nhân số của ba doanh, A
Mạch sao lại phải úy kỵ như vậy.
Mọi người còn đang nghi hoặc, chợt
thấy dưới chân dốc ầm ầm chấn động, chưa đầy một lát sau, âm thanh chấn
động này không những không giảm mà ngược lại còn tăng lên, khiến cho cả
khe núi đều rung chuyển. Mọi người vừa sợ vừa nghi hoặc, nhất tề nhìn về phía A Mạch. A Mạch chỉ lẳng lặng quan sát, sắc mặt cũng có chút tái
nhợt, ngay cả thần sắc cũng phai nhạt ba phần, hai con ngươi tối đen lại càng thêm sâu thẳm.
Khuôn mặt Vương Thất tràn đầy sự kinh hãi từ phía đông chạy tới, thở không ra hơi nói: “Thát, thát tử, lại có kỵ binh vào khe núi !”
Kỳ thật không cần anh ta nói, mọi
người đều đã nhìn thấy thiết kỵ Bắc Mạc dồn dập nện vó tiến vào trong
khe khiến bụi tung mù mịt, che kín cả bầu trời, trong khoảng thời gian
ngắn, tất cả mọi người đều sửng sốt. Phải biết nguyên tắc hành quân của
đại quân đều là đội tiên phong đi trước mở đường, kỳ vệ đội đi giữa, còn đội lương thảo và đồ quân nhu đi cuối cùng. Mọi người thấy lương thảo
của thát tử đã đi qua, đều nghĩ rằng số lượng của thát tử chỉ có thế, ai ngờ phía sau lại xuất hiện một đại quân kỵ binh lớn như thế!
Kỵ binh Bắc Mạc tuy tiến vào khe sâu
song vẫn duy trì đội hình tác chiến, trình tự bố trí các cánh quân rất
trật tự, năm ngựa thành một hàng ngang, sáu hàng thành một nhóm, hai
nhóm thành một dãy, cứ như vậy theo khoảng cách từ ngoài mà tiến vào khe núi.
Đội vận chuyển lương thảo và đồ quân
nhu Bắc Mạc phía trước mặc dù quá nửa đã ra khỏi khe núi, nhưng lối ra
chật hẹp, không thuận tiện cho việc di chuyển, nên tốc độ thập phần chậm rãi, khi đội quân tiên phong thiết kỵ Bắc Mạc tới lối ra, thì đội vận
chuyển lương thảo vẫn còn gần một nửa chắn ở đó, khiến đại đội kỵ binh
phía sau cũng bị chặn lại.
Kỵ binh tụ lại càng lúc càng nhiều,
đội hình tác chiến cũng có chút tán loạn, ban đầu vốn giữ khoảng cách
hơn một trăm bước giữa các nhóm, thì lúc này khoảng cách càng lúc càng
bị thu hẹp lại, nhanh chóng tụ thành một khối.
A Mạch một mực yên lặng, trầm mặc
quan sát, lúc này mới quay người đi đến ngồi xổm trước mặt Lâm Mẫn Thận, bình tĩnh nhìn anh ta, trầm giọng nói: “Kỵ binh thát tử không dưới ba
vạn, chúng ta đánh hay không đánh?”
Miệng Lâm Mẫn Thận bị bịt kín không nói được, chỉ có thể trợn to mắt mà nhìn A Mạch.
A Mạch trông có vẻ như là tới hỏi ý
kiến của Lâm Mẫn Thận nhưng lại không gỡ bỏ mảnh vải bố trong miệng anh
ta ra, chỉ bình tĩnh đối diện với Lâm Mẫn Thận, ngón tay theo bản năng
khẽ gõ vào đầu gối. Sau một lát, A Mạch nhẹ nhàng nở nụ cười, đứng dậy,
hướng về phía Trương Sỹ Cường phất tay nói: “Cung tên!”
Trương Sỹ Cường đưa trường cung cho A Mạch, rồi lại lấy một mũi tên đặt vào tay nàng. A Mạch hít sâu một hơi, cài mũi tên vào dây cung, mím môi, dùng hết toàn lực kéo căng dây cung. Đồng tử của Lâm Mẫn Thận mở trừng trừng, chưa kịp phản ứng, mũi tên
trong tay A Mạch đã bay vút đi, mang theo tiếng thét dài vang vọng đến
thấu trời.
Nhất thời, tiếng thét vang lên chấn
động trong khe sâu, tiếp đó, tiếng kêu hưởng ứng khắp nơi cùng đồng loạt vang lên, ngay sau đó, hai đầu lối ra vào của khe núi rầm rầm chuyển
động, vô số tảng đá lớn từ hai bên sườn lăn xuống khe sâu, chỉ trong
chốc lát đã bịt kín hai lối ra lại. Một trận mưa tên từ trên trời giáng
xuống, kỵ binh Bắc Mạc nhất thời đại loạn, muốn lao ra khỏi khe, nhưng
xung quanh đều là người ngựa của quân mình, nửa tấc cũng không thể dịch
chuyển, may mà thiết kỵ Bắc Mạc vốn có kỷ luật sắt, sau lúc chấn động
ban đầu, chỉ một lát sau liền trấn định lại, một mặt bố trí nhân lực
nhanh chóng làm giải tỏa sự bế tắc nơi lối ra, một mặt cho kỵ sĩ trên
lưng ngựa dùng cung tên phản kích.
Đội quân của A Mạch nấp sau đám cây
cối rậm rạp, lại chiếm lợi thế ở trên cao, những mũi tên này sao có thể
đả thương được bọn họ. Mà dưới khe núi, tình thế của kỵ binh Bắc Mạc lại hoàn toàn đối lập, bởi kỵ binh vốn không giống với bộ binh là lúc nào
cũng mang theo thuẫn giáp làm lá chắn, nên đối với trận mưa tên từ trên
trời giáng xuống này cũng chỉ có thể trơ mắt mà hứng chịu.
Khổ sở chịu đựng được một hồi, trận
mưa tên không những không chấm dứt, mà trái lại, lại biến thành trận mưa hỏa tiễn lao xuống vun vút. Kỵ binh Bắc Mạc mặc dù được rèn luyện bằng
kỷ luật sắt, nhưng những con ngựa họ cưỡi dù có được huấn luyện đến mấy
thì vẫn là giống súc sinh, sợ nhất là lửa, mà xung quanh khe núi lửa lại bốc lên khắp nơi, khiến những con ngựa không còn nghe theo sự khống
chế, điều khiển của người cưỡi nữa, chúng nhảy dựng lên, chạy hỗn loạn
về bốn phía. Trong phút chốc, khắp trận địa của kỵ binh đều là cảnh
người ngã ngựa đổ, người ngựa giẫm đạp lên nhau, chết vô số, thậm chí
còn chết nhiều hơn cả những người bị tên bắn trúng…
Một trận chiến như vậy liên tục cho
đến tận đêm, cửa ra khỏi khe tuy rằng đã được quân Bắc Mạc từ bên ngoài
mở ra, nhưng ba vạn kỵ binh Bắc Mạc trong khe sâu, mười phần thì đã chết hoặc bị thương mất tám, chín phần. Người Bắc Mạt không dám ham chiến,
cuống quít dẫn số kỵ binh may mắn còn sống sót chạy ra khỏi khe núi,
suốt đêm chạy chối chết về hướng tây.
“Thật đáng tiếc !” A Mạch dùng mũi
chân đá đá lên một con chiến mã vẫn còn hơi run rẩy, nhịn không được thở dài, nếu như sườn phía tây cũng có phục binh, hoặc là trong tay nàng có kỵ binh để truy kích, như vậy nhất định sẽ bắt được toàn bộ thát tử.
Lý Thiếu Hướng ở phía sau chỉ nghĩ
rằng nỗi tiếc hận của A Mạch là với những chiến mã, không khỏi liên tục
gật đầu, vô cùng đau lòng nói: “Nhiều chiến mã thượng phẩm như vậy, có
tìm khắp trong quân Giang Bắc cũng chẳng có a!”
Mọi người nghe được không nói gì, yên lặng nhìn nhau, tất cả đều trầm mặc, chỉ cung kính đứng sau A Mạch.
Lâm Mẫn Thận đã được Trương Sỹ Cường
cởi trói, cũng không phủi bụi đất bám trên người, mà trước hết cất giọng gọi A Mạch, trong thanh âm đầy sự kích động, hỏi A Mạch: “Ngươi làm sao biết phía sau đội quân vận chuyển đồ quân nhu là kỵ binh chủ lực của
thát tử?”
A Mạch thản nhiên liếc mắt nhìn anh ta mà không trả lời, chỉ tùy ý nhìn ra xung quanh.
Lâm Mẫn Thận cũng không bỏ qua, theo
sát phía sau A Mạch tiếp tục truy vấn: “Mạch tướng quân, ngươi không
phải đã sớm biết thát tử an bài đội hình hành quân như thế rồi đấy chứ?”
A Mạch như trước vẫn không để ý tới anh ta.
Lâm Mẫn Thận lo nghĩ, trong giây lát
chợt thất thanh kêu lên “Ai nha” một tiếng, thất kinh hỏi: “Chẳng lẽ từ
trước lúc phục kích, ngươi đã biết rằng kỵ binh thát tử hôm nay sẽ đi
ngang qua đây hay sao?”
A Mạch cuối cùng không nhịn nổi nữa,
quay đầu lại buồn cười nhìn Lâm Mẫn Thận, nói: “Lâm tham quân, Mạch mỗ
chỉ là một người trần mắt thịt, không phải thần tiên.”
Nghe A Mạch trả lời như thế, Lâm Mẫn
Thận hiểu rằng A Mạch cũng không biết trước, nhưng trong lòng vẫn nghi
nghi hoặc hoặc, may mà tiếp theo A Mạch lại lên tiếng giải thích: “Thát
tử từ phía đông đến, soái kỳ lại thêu một chữ “Thường”, tất nhiên là đội quân do Thường gia lĩnh quân đông tiến. Nếu như nói vì chúng ta cứu
viện Thái Hưng nên dẫn dụ bọn họ tới đây xem như cũng không phải là
không có lý, chỉ có điều Thường gia ở cách xa đây hơn ngàn dặm, từ khi
nhận được tin tức đến lúc lĩnh quân quay về phía tây, thì đã mất rất
nhiều ngày rồi, đâu thể chỉ vài ngày sau mà đã đến đây được, trừ phi,” A Mạch ngừng lại một chút, bước qua thi thể một kỵ binh Bắc Mạc dưới
chân, lại chậm rãi nói tiếp: “trừ phi thát tử sớm đã có sự chuẩn bị từ
trước, lúc chúng ta rời khỏi núi Ô Lan cũng chính là lúc đội quân này
đồng thời hành quân về phía Tây. Cho nên, Lâm tham quân, chúng ta có thể phục kích bọn họ ở đây chỉ là đúng dịp mà thôi.”
Lâm Mẫn Thận vẫn nhìn chằm chằm A
Mạch không rời mắt, hỏi: “Nói như vậy ngươi cũng không biết thát tử hôm
nay thì sẽ đi ngang qua đây?”
A Mạch cười cười, đáp: “Ta vốn nghĩ
sẽ đợi ở đây ba ngày, hết ba ngày sẽ đưa quân quay trở về Thái Hưng. Ai
ngờ đến hôm nay lại may mắn đụng đầu với thát tử.”
Lâm Mẫn Thận lại hỏi: “Vậy ngươi làm sao biết kỵ binh thát tử sẽ đi sau lương thảo?”
A Mạch cảm thấy anh ta hỏi rất buồn
cười liền cười, nói: “Tham quân, chẳng lẽ ngươi từ ngàn dặm xa xôi lại
chỉ phái mấy ngàn viện binh quay trở về để cứu viện thôi sao?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, trong lòng nhất thời minh bạch, đúng là thát tử sớm đã có đề phòng, đâu thể có chuyện
chỉ cho mấy ngàn binh lính không quản cực khổ từ xa quay về cứu Chu Chí
Nhẫn, trong thâm tâm Lâm Mẫn Thận đã hoàn toàn tin phục vào phân tích
của A Mạch, nhưng ngoài miệng lại vẫn không chịu nhận như vậy, chỉ hỏi:
“Nếu như tất cả chỉ có mấy ngàn viện quân thì sao? Chẳng lẽ ngươi sẽ để
cho bọn họ đi qua?”
A Mạch tựa tiếu phi tiếu nhìn anh ta, nói: “Nếu chỉ có ngần ấy nhân mã, sao lại phải tha cho chúng đi? Bọn họ sau khi vượt qua khe núi hiểm trở này, tất nhiên phòng bị sẽ lơi lỏng,
đến lúc đó ta ở phía sau thừa dịp đêm xuống sẽ tập kích doanh trại, tiêu diệt bọn họ có gì là khó?” A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận vẫn há miệng, không đợi anh ta hỏi, lại nói tiếp: “Tham quân đừng hỏi ta làm sao biết được
phía sau lương thảo sau mới là kỵ binh chủ lực của thát tử, tất nhiên là nhìn số lượng lương thảo mà suy đoán ra, chẳng lẽ chỉ với ngần ấy binh
mã mà lại cần đến nhiều lương thảo như vậy sao, huống chi đã đi được hơn nửa lộ trình rồi, mắt thấy sắp đến thành Thái Hưng, vì lý do gì mà vẫn
còn nhiều lương thảo như thế?”
A Mạch nói xong nhẹ nhàng quay gót,
xoay người nhìn binh lính thu dọn chiến trường. Lâm Mẫn Thận sớm đã kinh ngạc đến ngây người, thất thần sững sờ đứng ở nơi đó.
Kỳ thật trong lòng A Mạch còn có một
nguyên nhân khác không thể nói ra, đó là khi nàng còn ở thành Hán Bảo đã từng chứng kiến cách bày binh bố trận của kỵ binh Bắc Mạc, đưa mắt nhìn lại chỉ thấy một đoàn quân vô cùng trật tự, đó là một ấn tượng không
thể xóa mờ trong trí nhớ của nàng, cho nên đâu thể nào bây giờ lại biến
thành một đội kỵ binh tiên phong rời rạc như thế này! Trừ phi là kế sách của địch mà thôi!
Tạm không đề cập tới việc dọn dẹp
chiến trường của A Mạch, chỉ nói về tàn quân Bắc Mặc suốt đêm chạy trốn
theo hướng tây, đó quả thật chính là đội quân do Thường gia lĩnh quân
đông tiến từ Thanh Châu, trước tiên được Bắc Mạc nguyên soái Trần Khởi
ra lệnh bí mật đi theo hướng Tây, cầm quân chính là người con thứ mười
một của Thường gia, Thường Ngọc Tông, đường đệ của “Sát tướng” Thường
Ngọc Thanh.
Một đường từ Thanh Châu đi về hướng
tây, Thường Ngọc Tông vốn vẫn rất cẩn thận, thời gian chuẩn xác, chủ lực kỵ binh cũng không nóng vội, luôn cách xa một đoạn sau đội quân vận
chuyển lương thảo và đồ quân nhu, trên đường đi vốn vô cùng thuận lợi,
để che mắt người khác hơn nữa viện quân cũng chưa từng bị tập kích, hết
thảy khiến cho sự đề phòng của Thường Ngọc Tông khó tránh khỏi có phần
lơi lỏng. Mắt thấy sắp tới thành Thái Hưng liền không khỏi đẩy nhanh tốc độ hành quân, bất tri bất giác(1) khiến cho kỵ binh chủ lực thu hẹp
khoảng cách với phía trước. Lần này lại thấy đội quân vận chuyển lương
thảo và đồ quân nhu đều đã vượt qua khe sâu, nên nghĩ là trong khe núi
an toàn rồi nên mới cho kỵ binh chủ lực phía sau theo vào, ai ngờ ở
trong khe sâu phút chốc đã có sự biến đổi lớn! Ba vạn kỵ binh giờ chỉ
còn chưa đầy bốn ngàn đi ra, chính anh ta cũng là do đội cận vệ liều
chết cứu hộ mới có thể thoát ra khỏi khe núi, tánh mạng suýt nữa thì đã
để tại trong khe, một trận này, Thường gia thất bại vô cùng thê thảm.
Thường Ngọc Tông một mặt thu thập tàn quân tiếp tục chạy về phía tây, một mặt sai người đem tình hình trận
chiến cấp báo về Dự Châu.
A Mạch đợi chiến trường thu dọn xong
đã là quá giờ ngọ ngày hôm sau, ba vạn kỵ binh Bắc Mạc hao tổn suýt soát chín phần, xác kỵ sĩ cùng chiến mã cơ hồ phủ kín toàn bộ khe sâu, mà
thương vong bên phía A Mạch lại chưa đến một ngàn người, trong đó có
không ít là do bị ngã xuống khe núi mà bị thương. Tỷ lệ thương vong giữa địch và ta cách xa nhau thể hiện một cục diện trái ngược với địa vị
thông thường trên chiến trường giữa kỵ binh và bộ binh, hiện giờ, chính
là bộ binh dồn kỵ binh vào chỗ chết. Khe núi này vốn chẳng có tiếng tăm
gì, giờ theo trận đánh đó cũng thành nổi danh, người đời gọi là Bạch Cốt Hạp(2).
Chư tướng thủ hạ của A Mạch nhờ chiến tích này mà chí lớn dâng lên mãnh liệt, lập tức đều chờ lệnh truy sát
tàn quân thát tử đang trốn chạy về phía tây, lại bị một câu “Giặc cùng
chớ đuổi” của A Mạch nhẹ nhàng thổi bay. Trải qua trận đánh vừa rồi,
trong quân bất luận giai phẩm cao hay thấp đều đối với A Mạch tin phục
vô cùng, nếu nàng đã nói không truy sát, thì tất nhiên là có đạo lý của
việc không truy sát, chẳng qua tướng quân nhà mình vốn kiệm lời, cho nên không nói hết ra với mọi người mà thôi. Vương Thất lại nói trắng ra, là trong lòng đại nhân chúng ta có chín chín tám mươi mốt cái chuông nhỏ,
những kẻ thô lỗ đâu thể rung được?
A Mạch chỉnh đốn quân đội xong, cũng
theo hướng tây mà đi phía sau quân Bắc Mạc, nhưng không hề đuổi giết,
chỉ cách phía sau một quãng xa. Lâm Mẫn Thận thấy vậy, trong thâm tâm
lại khó tránh khỏi nảy sinh nghi hoặc, hỏi A Mạch: “Nếu thát tử sớm đã
có mưu tính, vậy thì đại tướng quân dẫn quân cứu viện Thái Hưng chẳng
phải là trúng gian kế của chúng sao? Như vậy thì chúng ta càng nên gấp
rút trở về Thái Hưng ứng cứu, đồng thời đem gian kế của thát tử báo cho
đại tướng quân biết, thế mà ngươi lại không vội không gấp như thế?”
A Mạch lại hỏi lại: “Ngươi có biết Trần Khởi giăng bẫy như thế nào không?”
Lâm Mẫn Thận khẽ giật mình, lo nghĩ hồi lâu rồi vẫn là lắc đầu, nói rất thực rằng: “Không biết.”
A Mạch cười nhạo nói: “Ngươi cũng
không biết anh ta giăng bẫy như thế nào, vậy thì vì sao còn nóng lòng
nhảy vào bẫy của anh ta?”
Lâm Mẫn Thận bị vặn lại như thế thì
không có cách gì để chống đỡ, lại nghe A Mạch nói: “Ngươi và ta may mắn ở ngoài cái bẫy ấy, vậy thì cứ ở ngoài quan sát xem thế nào rồi hãy nói
sau!”
Trong lúc A Mạch đang nói thì cục diện cuộc chiến đã âm thầm biến hóa.
Ngày hai mươi ba tháng ba, quân Giang Bắc cùng đại quân vây thành của Chu Chí Nhẫn tiếp chiến ở phía bắc
thành Thái Hưng. Cùng lúc, mạn phía nam sông Uyển, thuỷ quân Phụ Bình
xuất chiến tấn công vào doanh trại thủy quân của Chu Chí Nhẫn.
Ngày hai mươi tư tháng ba, Chu Chí Nhẫn thất bại lui về ngoài thành Thái Hưng hơn ba mươi dặm.
Ngày hai mươi lăm tháng ba, quân
Giang Bắc cùng thuỷ quân Phụ Bình cùng đồng loạt tấn công, bao vậy Chu
Chí Nhẫn ở ngoài thành, quân sĩ trong thành Thái Hưng bị nhốt hai năm,
giờ sĩ khí nhất thời tăng vọt, mở cửa thành tấn công đại quân Chu Chí
Nhẫn từ phía sau, Chu Chí Nhẫn nhất thời lâm vào cảnh hai mặt thụ địch,
xem tình hình này cùng lắm chỉ cầm cự được một ngày là tan tác.
Thắng lợi, giống như đã chạm vào bàn tay của quân Giang Bắc.
Nhưng thế sự khó lường, mắt thấy
dường như quân Giang Bắc sẽ phá tan đại quân của Chu Chí Nhẫn rồi sẽ hội quân cùng quân sĩ giữ thành Thái Hưng, song phía sau trận đột nhiên bất ngờ đại loạn, một đội kỵ binh tinh nhuệ của Bắc Mạc bỗng từ phía sau
xâm nhập, sắc bén thọc sâu vào trận địa của quân Giang Bắc, đi đến đâu,
máu chảy đầu rơi đến đó. Cục diện chiến trường nhất thời nghịch chuyển,
đội hình của quân Giang Bắc bị phân tán, Vệ Hưng chưa kịp chỉnh đốn lại
trận địa thì đã nhận được tin báo động trời, đó là phía bên ngoài trận
địa của quân Giang Bắc không biết đại quân thát tử mọc từ đâu ra, đã tạo thành gọng kìm, siết chặt quân Giang Bắc!
Quân coi giữ thành Thái Hưng vừa thấy tình thế không ổn, vội vàng thu binh, nhanh chóng đóng cửa thành lại,
không chỉ là nhốt thát tử bên ngoài thành, mà cả đội quân coi giữ thành
Thái Hưng đang cùng ngũ doanh quân Giang Bắc xâm nhập vào trận địa Bắc
Mạc cũng bị nhốt ở ngoài thành. Một ngàn bảy trăm người của ngũ doanh
quân Giang Bắc toàn bộ đều chết trận ở dưới tường thành Thái Hưng, người chỉ huy ngũ doanh là Trương phó tướng dựa lưng vào cổng thành chiến đấu tới kiệt sức mà chết, đến chết cũng chỉ có thể kêu mở cổng thành Thái
Hưng!
Chỉ qua có nửa ngày, thắng bại đã
hoàn toàn xoay chuyển. Bại quân Chu Chí Nhẫn bỗng bất ngờ phản kích,
quay lại tấn công đại quân Giang Bắc như vũ bão, quân Giang Bắc lâm vào
cảnh hai mặt thụ địch, dường như toàn quân sẽ bị tiêu diệt, may thay
đúng lúc đó, tả phó tướng quân Giang Bắc Đường Thiệu Nghĩa mang kỵ binh
doanh từ phía bắc chạy về đúng lúc, liều chết đột phá vòng vây của quân
Bắc Mạc mới cứu được đám người Vệ Hưng.
Thì ra Đường Thiệu Nghĩa phụng mệnh
đi chặn kỵ binh Bắc Mạc của Dự Châu, sau mấy ngày, Đường Thiệu Nghĩa
thấy kỵ binh Bắc Mạc mặc dù từ Dự Châu ra, nhưng không vội hành quân về
phía Nam, lập tức trong lòng Đường Thiệu Nghĩa sinh nghi, suy nghĩ nửa
ngày liền quyết đoán mang binh quay về phía Nam, quả nhiên thấy ngoài
thành Thái Hưng, quân Bắc Mạc đang trong ngoài giáp công quân Giang Bắc.
Đợi Đường Thiệu Nghĩa dẫn kỵ binh che chắn cho Vệ Hưng ra khỏi vòng vây của quân Bắc Mạc, khi chỉnh đốn lại
thì tàn quân cùng lắm cũng chỉ còn lại hơn hai vạn người, Thái Hưng đã
không thể tiếp tục ở lại!
Hướng tây, con đường trở về núi Ô Lan đã bị đại quân Bắc Mạc phá hủy; Hướng nam, thủy quân Phụ Bình cũng đã
đại bại, dòng sông Uyển rộng mênh mông ngăn cách trước mặt; Hướng bắc,
là hơn mười vạn thiết kỵ của thành Dự Châu…
Xem ra, chỉ có phía Đông là hướng duy nhất tạm thời không có đại quân của thát tử.
[ Cuốn thứ ba hoàn ]
————————-
Chú thích:
1- Bất tri bất giác: Có hai nghĩa:
- Thuận theo lẽ tự-nhiên mà không cần dùng đến ý-trí.
- Không có tư-tưởng kế-hoạch sẵn mà thình-lình bị động trong một thời gian.
2- Bạch Cốt Hạp: Bạch cốt: xương trắng; hạp: cái hộp. Hiểu nôm na thì tên Bạch Cốt Hạp này có nghĩa là khe xương trắng.